Tour du lịch Nhật Bản giá rẻ

Thưởng ngoạn sắc lá đỏ đặc trưng của Mùa thu Nhật Bản. Du thuyền Hồ Ashi. Cơ hội chinh phục núi Phú Sỹ

Tour du lịch Thái Lan 5 ngày 4 đêm giá rẻ

Thưởng thức các món ăn ẩm thực đường phố Bangkok và Mua sắm thỏa thích tại thành phố Bangkok.

Tour du lịch châu Âu giá rẻ

Cơ hội đến Pháp ngắm tháp Eiffel nổi tiếng, thưởng thức bia Đức, thưởng thức món ăn Ý, mua sắm hàng hiệu ở Thụy Sĩ…..

24/10/14

Đặc điểm văn hóa Nhật Bản

Nhật Bản là một dân tộc có hàng ngàn năm lịch sử. Từ một quốc gia nghèo khổ ở Đông Á, từ một nước thất trận trong chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản đã nhanh chóng khôi phục đất nước tan hoang, hồi sinh và trở thành một trong những nước công nghiệp hàng đầu của thế giới. Trong sự phát triển đất nước, văn hóa Nhật Bản là một yếu tố nội sinh, một động lực tích cực thúc đẩy sự đổi thay của đất nước. Đặc biệt, hiện nay, khi đang gồng mình khắc phục hậu quả của thiên tai, bất chấp những cảnh tượng kinh hoàng do động đất và sóng thần, nước Nhật đã tạo được uy tín lớn bởi sự kiên cường, đoàn kết và trật tự của người Nhật. Tại sao người Nhật lại giữ được trật tự khi thiên tai xảy ra, điều mà hầu hết ở tất cả các nước không làm được?

1. Một nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc

Nền văn hóa Nhật Bản từ truyền thống đến hiện đại là một nguồn mạch dồi dào giàu bản sắc, nhất quán trong đặc điểm dân tộc và tính thời đại. Có nhiều cách giải thích khác nhau về bản sắc dân tộc của văn hóa Nhật. Có người cho rằng, do quần đảo Nhật Bản ở xa khơi, đất nước Nhật chưa hề bị một đạo quân xâm lược nào chiếm đóng, kể từ trước 1945. Những điều kiện tự nhiên và xã hội đó dễ tạo cho dân tộc phát triển thuần nhất, phẩm chất của dân tộc thấm sâu và tạo thành truyền thống lâu bền, phong tục tập quán thành nếp sống bền vững, sở thích trong cuộc sống trở thành thị hiếu thẩm mỹ. Lại có ý kiến cho rằng, chính điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt và thơ mộng là một thử thách lớn lao và nguồn nuôi dưỡng vô tận cho sức sống của dân tộc Nhật Bản. Đất trồng trọt nghèo nàn chiếm 13% diện tích, còn lại là rừng núi hiểm trở hoang dại. Dân tộc Nhật Bản phải tiến hành cuộc đấu tranh bền bỉ với thiên nhiên khắc nghiệt để đảm bảo cuộc sống, thực tế gay gắt ấy tạo cho con người ở nơi đây sự cần cù, bền bỉ.

Sự phân chia quyền lực trong hàng chục thế kỷ của các shogun, tinh thần võ sĩ đạo thể hiện như một lý tưởng, một lối sống đã mài sắc ý chí chiến đấu của nhiều lớp thanh niên. Giáo lý của đạo võ sĩ có tám đức tính căn bản nhất mà người võ sĩ phải rèn luyện:

Đức ngay thẳng: giúp cho con người quyết định công việc một cách nhanh chóng, thẳng thắn, hợp với lẽ phải, không trái với lương tâm.

Đức dũng cảm: nếu chỉ là dám xông vào nơi nguy hiểm, ác liệt nhất của trận chiến và hy sinh thân mình, đó là nhiệm vụ của con nhà võ. Còn thực chất của đức dũng cảm là biết sống khi cần phải sống, biết chết khi nào cần thiết. Thấy việc nghĩa không làm, không phải là dũng cảm. Đức tính này phải được rèn luyện từ nhỏ. Con trai của người võ sĩ cần được luyện tập, chịu đói khát, khổ sở để khôn lớn, xông pha vào cuộc đời để khỏi bỡ ngỡ. Luyện tập được tính dũng cảm, bình tĩnh thì lúc gặp nguy nan vẫn sáng suốt.

Đức nhân từ: là tình thương rộng lượng, nhân ái, là đức tính cao cả nhất của người võ sĩ. Nếu như tính ngay thẳng, công bằng và dũng cảm là những đức tính nam nhi thì lòng nhân từ có cái mềm mại làm nên sức mạnh nữ giới. Nhưng cái nhân từ của người võ sĩ cũng không giống như đức nhân từ của người phụ nữ. Nếu ngay thẳng quá đáng thì trở thành thô bạo, nếu nhân từ quá mức sẽ trở nên nhu nhược. Vì vậy những người dũng cảm nhất là những người dịu dàng nhất và những người giàu tình thương chính là những người dám chiến đấu dũng cảm.

Đức lễ phép: có nghĩa là làm sao cho người khác thật tình vui vẻ trước những cử chỉ lịch sự của mình. Những cử chỉ lịch sự đó phải thể hiện một cách đứng đắn, thể hiện đức từ bi, bác ái tự đáy lòng mình mà ra.

Biết tự kiểm soát mình: là biết tự kiềm chế, làm cho mình có dũng khí khác thường, làm cho xã hội vui tươi, đời sống có ý vị hơn. Những ai không tự chủ được mình để cho những điều lo lắng bên trong bộc lộ ra ngoài thì không phải là hạng người có dũng khí. Không hề tỏ ra một dấu hiệu vui mừng hay giận dỗi, đó là câu nói cửa miệng của các võ sĩ.

Chân thực: nếu không chân thực thì lễ phép chỉ là giả tạo và trò cười. Người võ sĩ phải có đức tính chân thực cao hơn các tầng lớp xã hội khác. Lời nói của người võ sĩ có trọng lượng như một lời hứa chắc chắn không cần văn tự, bởi vì danh dự của người võ sĩ còn cao hơn giá trị của văn tự nhiều.

Trung thành: lòng trung thành rất quan trọng trong mối quan hệ chủ tớ ngày xưa. Theo đạo võ sĩ thì quyền lợi giữa gia đình và những người trong gia đình đều đồng nhất, không tách rời nhau. Song giữa gia đình và Thiên hoàng, nếu phải hy sinh một bên thì người võ sĩ không ngần ngại hy sinh gia đình của mình để phụng sự Thiên hoàng. Khi người võ sĩ không đồng ý kiến với chủ soái, việc làm trung thành của anh ta là tìm mọi cách để chủ soái thấy được sai lầm của mình. Người võ sĩ có thể kêu gọi lương tâm của chủ soái và bày tỏ lòng trung thành của mình bằng cả sự hy sinh những giọt máu cuối cùng.

Trọng danh dự: là ý thức mạnh mẽ, sâu sắc về giá trị và thanh danh của người võ sĩ. Khi người khác nói xấu mình, đừng trả thù họ mà nên suy nghĩ mình đã làm tròn bổn phận chưa. Phải biết hổ thẹn khi phạm đến điều gì tổn hại đến danh dự. Biết hổ thẹn là một trong những đức tính cần được giáo dục cho tuổi trẻ.

Xã hội Nhật Bản có ba tầng lớp chính là quý tộc, võ sĩ và nông dân, thợ thủ công. Có thể nói cách sống của tầng lớp võ sĩ có ảnh hưởng đến xã hội Nhật trong lối sống nhiều nhất. Tầng lớp võ sĩ chuộng sự đơn giản nhưng sâu lắng do ảnh hưởng của thiền, họ luôn tìm thấy cái đẹp trong sự đơn giản khiết bạch. Chính tinh thần thượng võ của giới võ sĩ đã ảnh hưởng đến đời sống nhân dân Nhật Bản, nên nhờ vậy mà nước Nhật điêu tàn sau chiến tranh trở nên một nước hùng mạnh nhất nhì thế giới, và cũng nhờ đó mà nước Nhật tiến bộ hơn hầu hết các nước châu Á khác trước chiến tranh thế giới thứ hai.

Nhật Bản là một dân tộc có ý thức về thế giới tinh thần, rèn luyện để tạo nên sức mạnh về tinh thần. Điều này thể hiện rõ ở lĩnh vực tôn giáo. Ở Nhật, nhiều tôn giáo cùng tồn tại: đạo Shinto (Thần đạo), đạo Phật, đạo Thiên chúa và nhiều tôn giáo khác. Trong đó, rất nhiều người Nhật theo cả hai tôn giáo: đạo Phật và Thần đạo. Thần đạo không phải là một tôn giáo theo nghĩa thông thường vì không có kinh bổn và đối tượng thờ cúng duy nhất. Thần đạo thờ các vị thần linh thiêng trong trời đất, thờ tổ tiên, thờ hồn người chết, đặc biệt là thờ các anh hùng dân tộc có công lao với đất nước. Do vậy, Thần đạo gắn liền với dân tộc.

Thần đạo và Phật giáo ở Nhật Bản ảnh hưởng nhiều đến việc hình thành tính cách con người nơi đây. Thần đạo mài sắc ý chí và đem lại sức mạnh tinh thần. Còn Phật giáo giúp vào sự rèn luyện thân thể. Thần đạo không ngừng thúc đẩy con người vượt qua mọi khó khăn để vươn lên trong cuộc sống thì đạo Phật lại giúp con người loại bỏ và hạn chế dục vọng để giữ gìn sự bền bỉ, kiên trì cho những mục đích của mình. Hai tôn giáo hòa quyện với nhau, tạo nên một con người Nhật luôn biết chủ động, tĩnh tâm, không vô tâm nhưng cũng không bị lôi cuốn vào vòng sắc dục.

Trong văn hóa, tôn giáo dễ được xem là những yếu tố thuộc phạm vi tâm linh không dễ đóng góp vào sự phát triển xã hội, nhưng chính Nhật Bản đã biết khai thác mặt tích cực của Thần đạo, Nho giáo và Phật giáo như một trong những động lực của sự phát triển xã hội. Các tôn giáo không đẩy tâm linh vào chỗ mê tín, dị đoan, mà ngược lại góp phần xác định sức mạnh và quyền lực của những giá trị tinh thần, của tâm linh để phục vụ cho cuộc sống.

Người Nhật như ấp ủ, nung nấu trong tâm linh, trong thế giới tinh thần những dự kiến, những tâm thức cho sáng tạo và hành động. Vì vậy, có nhiều người cho rằng, tâm hồn người Nhật có một cái gì đó thần bí, bí ẩn. Thực ra cái gọi là bí ẩn chỉ là sự kiên trì nỗ lực, nuôi dưỡng ý chí cho một mục đích đang và sẽ thực hiện, ở những thời điểm thích hợp, trước những yêu cầu của xã hội, của đất nước, sức mạnh ấy bùng lên, tỏa ra thành một lực lượng vật chất và tinh thần vĩ đại, và lịch sử đã chứng minh cho điều đó, chứng minh cho sự vươn lên thần kỳ của đất nước này.

Văn hóa Nhật Bản trong hàng ngàn năm đã tạo nên những nghi lễ, những tập quán trong văn hóa ứng xử, trang phục và cách ăn uống. Người Nhật quý khách nhưng không quá vồ vập tay bắt mặt mừng mà vẫn giữ nghi lễ trong cách cúi chào, trong lời mời mọc. Từ người dân trong đời sống hàng ngày đến vị nguyên thủ quốc gia trong cuộc họp lớn của nhà nước vẫn cúi mình đáp lễ như phong tục tập quán không thể khác đi của dân tộc.

Trà đạo là một nghệ thuật thưởng thức trà trong văn hóa Nhật Bản, được phát triển từ khoảng cuối TK XII. Chỉ một ly trà xanh nho nhỏ nhưng với người Nhật nó lại như một ốc đảo trong tâm hồn. Họ cho rằng thông qua trà đạo có thể phát hiện được giá trị tinh thần cần có của bản thân. Tinh thần của trà đạo được biết đến qua bốn chữ hòa, kính, thanh, tịch. Hòa là hòa bình, kính là tôn trọng người trên, yêu thương bè bạn, con cháu, thanh tức là thanh tịnh, thanh khiết, còn tịch là giới hạn mỹ học cao nhất của trà đạo: an nhàn.

Bên cạnh đó, y phục thời trang cũng là một nét sinh hoạt văn hóa của người Nhật, đặc biệt là đối với người con gái. Cách búi tóc của các cô gái Nhật rất cầu kỳ, mái tóc trước được dựng cao làm cho khuôn mặt có vẻ riêng, còn những món tóc được uốn lượn cầu kỳ là một nét thẩm mỹ đoan trang và duyên dáng. Trang phục truyền thống của người Nhật là kimono, một chiếc áo choàng được giữ cố định bằng một vành khăn rộng cuốn chặt vào người cùng với một số dây đai và dây buộc, ống tay áo dài và rộng thùng thình. Kimono của nam giới có vành khăn đơn giản và hẹp hơn. Kimono cho phụ nữ thường có các họa tiết hoa, lá và các biểu tượng thiên nhiên khác, phản ánh tình yêu thiên nhiên của người Nhật Bản. Ngày nay, kimono thường chỉ được sử dụng vào các dịp lễ tết. Phụ nữ Nhật mặc kimono phổ biến hơn nam giới, phái nam dùng kimono chủ yếu trong lễ cưới và buổi lễ trà đạo.

Những phong tục và nghi lễ của Nhật Bản đã góp phần tạo nên cuộc sống nền nếp, đảm bảo cho sự phát triển của xã hội, tạo nên một nền văn hóa Nhật mang đậm yếu tố nội sinh.

Giữ gìn và phát huy nền văn hóa giàu bản sắc dân tộc của người Nhật là một trong những nguyên nhân cơ bản giải thích tại sao Nhật Bản không diễn ra tình trạng cướp bóc hay tư lợi trong thảm họa động đất, sóng thần vừa qua, và có nhiều người Nhật đang trở thành đội quân cảm tử, bất chấp mạng sống của mình trong các nhà máy điện hạt nhân.

Trong quá trình phát triển, văn hóa Nhật không bảo thủ đóng kín mà nhạy cảm tiếp nhận những cái mới. Tuy nhiên, người Nhật luôn biết giữ gìn bản sắc dân tộc. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc và phương Tây đến văn hóa Nhật Bản là không nhỏ, nhưng người Nhật đã biết tiếp nhận ở một cách riêng, tạo nên nét độc đáo trong văn hóa Nhật.

2. Sự phong phú của một nền văn hóa đa dạng, đa chủng loại

Văn hóa Nhật Bản tiêu biểu cho một nền văn hóa cân đối, phát triển về nhiều mặt: văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại, văn hóa đô thị và văn hóa làng quê, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, văn hóa đa chủng loại của dân tộc.

Nhật Bản đã tìm được sự kết hợp hài hòa không phải ở mức liên kết mềm yếu giữa các yếu tố mà là sự liên kết giữa các đỉnh cao và trạng thái cực đoan của các yếu tố. Đó là sự kết hợp giữa núi cao, rừng sâu với biển xanh dịu dàng, giữa cơn bão tuyết với từng cánh hoa mong manh, giữa thanh kiếm sắc của các shogun với hoa anh đào mùa xuân... Trong đời sống xã hội, đó là sự kết hợp giữa Thần đạo đầy sức mạnh và linh thiêng với nét từ bi nhân ái của đạo Phật, giữa những yếu tố tâm linh vừa đè nặng vừa khơi dậy sức sống tinh thần, giàu bản sắc dân tộc với tính nhiều màu vẻ của thời đại.

Có thể nói không có dân tộc nào nhạy bén với cái mới bằng người Nhật. Họ không ngừng theo dõi những biến đổi của thế giới, đánh giá cân nhắc những ảnh hưởng của các trào lưu và xu hướng chính đang diễn ra đối với Nhật Bản. Khi xác định được trào lưu đang thắng thế, họ sẵn sàng chấp nhận, nghiên cứu và học hỏi để bắt kịp trào lưu đó, không để mất thời cơ.

Sự phong phú của một nền văn hóa đa dạng, đa chủng loại trong văn hóa Nhật Bản thể hiện trên tất cả các lĩnh vực, tạo nên nhân tố nội sinh đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội Nhật Bản hiện đại.

Hiếu học là một truyền thống tốt đẹp của nhân dân Nhật Bản qua nhiều thời kỳ lịch sử. Cần cù học tập để thêm hiểu biết và vận dụng kiến thức phục vụ xã hội. Hệ thống giáo dục được xem như là chìa khóa làm cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định về mặt chính trị. Việc đầu tư cho giáo dục có ý nghĩa to lớn đối với đất nước. Nhà nước, bằng mọi cách suốt hàng thế kỷ qua, đã tạo lập ra hệ thống có thể đào tạo lực lượng lao động có hiệu quả cao, đưa đất nước tiến tới hiện đại hóa. Ở cấp độ cá nhân, người Nhật ngày nay được đánh giá chủ yếu dựa vào học vấn chứ không phải địa vị gia đình, địa vị xã hội và thu nhập. Hơn nữa, sự theo đuổi học tập không phải để thỏa mãn nhu cầu tức thời nào đó mà đơn giản họ tin tưởng sâu sắc giáo dục phải là sự cố gắng suốt đời. Phần lớn người Nhật muốn hoàn thiện mình hơn và học hỏi là cách tốt nhất để đạt mục đích.

Chế độ xã hội Nhật Bản tạo cho người dân Nhật niềm tin rằng: số phận, cơ may của họ được định đoạt bởi sự chăm chỉ học hành và điều quan trọng là họ tin rằng ngay từ đầu họ đều có cơ hội bình đẳng như nhau. Do vậy, ý niệm về sự bình đẳng là một đặc điểm quan trọng của hệ thống giáo dục. Phần lớn người Nhật tin rằng họ đang sống trong một môi trường xã hội công bằng, trong đó nguồn gốc xuất thân, tài sản thừa kế không quan trọng bằng sự cố gắng bản thân.

Như vậy, nhờ giáo dục, nền văn hóa Nhật Bản phát triển trên cơ sở quần chúng nhân dân có trình độ văn hóa đồng đều, tạo điều kiện cho những giá trị nhân văn phát triển.

Học tập những thiết chế xã hội và đạo lý gia đình của Khổng tử, người Nhật có ý thức xây dựng đời sống gia đình, là tổ ấm làm nguôi quên những bất bình và bực dọc với xã hội. Gia đình là đơn vị mà con người gắn bó với nhau bằng huyết thống và quan hệ tình nghĩa. Chính vì vậy mà ở Nhật, việc giáo dục gia đình được đặc biệt chú ý. Gia đình trực tiếp giáo dục con cái thành người. Mở rộng ra, ở các xí nghiệp, nhà máy, người Nhật cũng có xu hướng vận dụng quan hệ gia đình để quản lý và người thợ nhiều khi gắn bó suốt đời với nhà máy như chính với gia đình mình. Điều này cũng lý giải tại sao người Nhật rất đoàn kết trong các tổ chức tập thể. Chính tất cả những yếu tố trên góp phần làm cho văn hóa Nhật Bản giàu tính nhân văn.

Tóm lại, văn hóa Nhật Bản là một mô hình mẫu mực của văn hóa truyền thống và văn hóa hiện đại. Nền văn hóa đó đã tạo động lực cho sự phát triển chung của xã hội về vật chất cũng như tinh thần.

Lễ hội truyền thống Nhật Bản Nhật Bản có hai tôn giáo tôn giáo chính đạo là thần Shinto và đạo Phật

nhiều người nói là không theo hẳn một tín ngưỡng nào .Những hầu như tất cả mọi người đều tham gia cac phong tục và nghi thức của cả đạo Thần và đạo Phật .Ví dụ như đám cưới người Nhật đều chuộng thể hiện theo nghi lễ của đạo Shinto còn về tang lễ lại thực hiện theo nghi lê của đạo Phật .Thiên chúa giáo do các giáo sĩ người Bồ Đào Nha truyền bá vào Nhật Bản vào giữa thế kỉ 16 nhưng chỉ có một phần nhỏ người dân Nhật Bản theo đạo này.Ngoài ra hiện này cũng có thêm một số giáo phái mới ,nhưng họ cũng chịu ảnh hưởng một hay nhiều tôn giáo cũ.Shinto là tôn giáo vôn có của Nhật Bản .Nó bắt đầu từ lịch sử xa xưa và huyền bí .Con người tin tưởng là có thế lực thần linh kami tồn tại trong tự nhiên -- ở trong cây cối ,núi non ,trong biển cả hay trong những cơn gió .Người xưa tôn thờ thế lực này và sống hài hòa với tự nhiên .Khi đạo Shintophát triển ,thế lực thần linh kami còn bao gồm cả tổ tiên ,những người anh hùng và tất cả những ai được kính trọng khác nữa.Trước đây ,nhân dân thường đến những nơi nhất định trong thiên nhiên để tỏ lòng kính trọng kami tiêu biểu là lễ hội Daisairei ở Izumo.]

Lễ hội Daisairei (Izumo)

[​IMG]

Sau này,những điện thờ được xây dựng để lầm nơi thờ cúng.Nhiều nhà còn lập cả một giá nhỏ để thờ thần và người ta thường đặt thức ăn,hoa quả ở đó để cúng.Đạo Phật bắt nguồn từ Ấn Độ ,qua Trung Quốc và Triều Tiên đến Nhật Bản vào khoảng giữa thế kỉ thứ 6.Phật giáo ở Nhật Bản có nhiều môn phái khác nhau.Trong các ngôi chùa đều có tượng Phật butsuzo và du khách đến chùa đều thắp hương trước Phật và cũng là nơi họ thờ tổ tiên.

Lễ hội lớn nhất ở Nhật Bản là Năm mới O-shogatsu (Lễ hội năm mới)

Toàn bộ công việc linh doanh và công sở ngừng hoạt động từ ngày 1 đến 3 tháng giêng.Đây là thời gian để họ hàng đến thăm nhau,vì vậy nhiều gia đình đã về nhà ông bà để đón năm mới .Lễ tết bắt đầu từ đêm giao thừa .Vào nửa đêm của ngày 31 tháng 12 toàn thể gia đình ngồi ăn mì vì đó là biểu hiện của sự sống lâu sau đó mọi người đi đến điện thờ hoặc đền của địa phương để cầu những điều may mắn cho năm tới .Vào ngày mùng 1 tháng giêng,một bữa ăn sáng đặc biệt cho mọi người ,trẻ em được mừng tuổi ,và mọi người chờ đợi thiếp chúc mừng năm mới được phân phát vào buổi sáng của năm mới. Năm mới ở Nhật thật đẹp và không hề mất đi nét cổ truyền mặc dù ngùơi Nhật ăn tết và mừng năm mới theo lịch tây , chứ không theo lịch âm như các nứơc ở Đông Nam Á . Năm mới ở Nhật bắt đầu bằng 108 tiếng chuông được đánh báo hiệu phút giao thừa . Ngừơi NHật còn có phong tục ngắm mặt trời mọc vào ngày đầu tiên của năm mới , ai nhìn thấy ánh sáng đầu tiên của mặt trời sẽ gặp may mắn trong năm , họ cũng ứơc mong những điều mà họ múôn trong năm mới . 

Nhật Bản có nhiều ngày lễ và lễ hội được tổ chức quanh năm. Hầu hết các lễ bây giờ được tính theo Dương lịch, nhưng cũng có những lễ hội được tính theo âm lịch. Hầu hết xuất xứ của các lễ hội ở Nhật Bản đều gắn với sự chuyển mùa, với các hoạt động nông nghiệp, hoặc những mong muốn về sự bình an, khoẻ mạnh cho mọi người.

Các lễ hội trong năm

Năm mới (shogatsu): Cũng như nhiều nước trên thế giới, Năm mới là lễ hội quan trọng nhất trong năm. Trước kia, Nhật Bản đón năm mới theo âm lịch giống Việt nam và Trung quốc, nhưng từ hàng trăm năm nay, người Nhật đón năm mới theo Dương lịch. Trong đêm giao thừa, người Nhật ăn món mì trường thọ (toshicoshi soba), vào ngày mùng 1 tháng Giêng, các gia đình sum họp, uống sake, thứ rượu được coi là trường thọ, món ăn osechi cổ truyền và không thể thiếu món bánh dầy ăn cùng với món súp đặc biệt của ngày tết là ozoni (súp). Những ngày trước và sau tết ngưởi ta thường gửi thiếp chúc tết đến bạn bè, người thân, đồng nghiệp. Người ta cũng hay đi hái lộc ở các đền chùa để cầu an. Ngừơi Nhật cũng có phong tục chọn phương hướng tốt để xuất hành đầu năm (hatsu moode), phong tục khai bút (kakizome) và phong tục mừng tuổi tiền (o toshi dama) cho trẻ con. Trong những ngay tết, họ trang trí cổng hoặc cửa ra vào bằn tre và cành thông và cái cổng chào này được gọi là kadomatsu.
[​IMG]

-Tiết phân (setsubun): Trước đây, từ Setsubun được dùng để chỉ bất cứ sự thay đổi mùa nào theo lịch cũ, nhưng ngày nay nó được dùng riêng cho ngày lập xuân, tức là ngày mùng 3 hoặc ngày mùng 4 tháng 2. Vào ngày này trong những gia đình, người ta tung những hạt đậu (đã được rang khô) ra trước sân hoặc quanh nhà để đuổi ma quỉ và rước phúc lộc vào nhà, vừa tung vừa hát "ma quỉ đi ra, phúc lộc vào nhà".

[​IMG]

- Hội Hina (Lễ hội của bé gái hay còn gọi là ngày hội búp bê): Hội này được tổ chức vào mùng 3 tháng 3. Trong ngày này, các gia đình có con gái bày một bộ búp bê (Hinaningyo) tượng trưng cho cung đình xưa và uống một thứ sake trắng ngọt đăc biệt để mừng ngày hội và cầu chúc. Tại các trường học, các bé gái được tập làm những con búp bê Hina bằng giấy. Do ngày hội đúng vào mùa hoa đào nở, nên người ta còn gọi là Momo no tseku( lễ hội hoa đào).

[​IMG]

Lễ tảo mộ (Higan)
Cũng như người Việt nam, người Nhật rất coi trọng mồ mả tổ tiên. Lễ tảo mộ ở Nhật kéo dài suốt một tuần lễ quanh ngày Xuân phân (khoảng 21/3) và Thu phân (khoảng 23/9). Vào dịp này người ta đi tảo mộ và coi đây là những ngày thờ phụng tổ tiên

[​IMG]

* Ngày trẻ em (Kodomo no hi) mình thích lễ hội này nà :D :D
[​IMG]

Xuất xứ của ngày hội này là lễ hội của các bé trai, nhưng ngày nay người ta gọi là ngày trẻ em. Lễ hội này được tổ chức vào ngày mùng 5/5 và từ các năm 1948 trở thành ngày nghỉ của cả nước. Vào ngày này, các gia đình có con trai thường treo trước nhà những dải cờ hình cá chép nhiều màu sắc sặc sỡ, gọi là konobori. Theo người Nhật, cá chép tượng trưng cho sức mạnh. Trong ngày hội này người ta ăn một thứ bánh đặc biệt làm từ gạo.

[​IMG]

Wagashi: Suetomi Kodomo-no-hi Mochi

*Lễ hội Tanabata
Xuất xứ của ngày hội này là dựa vào truyền thuyết về tình yêu giữa hai ngôi sao trong giải ngân hà là Ngưu Lang (Altair) và Chức Nữ (Vega), có nguồn gốc từ trung quốc. theo truyền thuyết này vào ngày 7/7 hai ngôi sao này sẽ gặp nhau nên người ta tổ chức lễ hội vào ngày này. Trong lễ hội này, người ta nhặt nhũng cành tre, trang trí lên đó những mẩu giấy màu sặc sỡ và viết lên những ước mong của mình lên nhũng băng giấy mầu đó và treo lên cành tre.

[​IMG]

* Lễ hội Vu lan(Obon)

[​IMG]

Trước đây ngày lễ này được tổ chức vào ngày 15 tháng 7 âm lịch, nhưng hiện nay nó được tổ chức vào ngày 17/7 hoặc tháng 8 dương lịch, tuỳ theo từng địa phương. Ngày lễ này gần giống với ngày xá tội vong nhân ở Việt nam, là ngày mà theo người Nhật là rước linh hồn tổ tiên về cúng giỗ. Nhiều nơi tổ chức vũ hội, múa các điệu múa cổ truyền (Bonodori). Vào thời gian lễ hội người ta treo cao những chiếc đèn lồng với mục đích là để hướng dẫn linh hồn người đã khuất trở về. Tại nhiều vùng, các đèn lồng được thả trôi trên sông. Vào dịp này, nhiều người Nhật làm việc ở xa quê hương về thăm quê hương, đi thăm mộ người thân.
Awa Odori (Shikoku) những doàn người mặc trang phục cổ truyền múa điệu múa đặc trưng đi diễu hành khắp các phố, họ là những người dân được chọn để biểu diễn bài múa, bài múa thường là những động tác nhanh và dứt khoát nhìn rất dẹp mắt vì những người múa rất đều nhau, họ dã phải tập luyên rất nhiều để có thể múa đẹp như thế.

[​IMG]

Cũng có vô vàn những ngày lễ hội địa phương được tổ chức quanh năm. Một số có sức thu hút hàng nghìn người tham gia. Lễ hội Kamakura và lễ hội tuyết dã nói ở trên là hai lễ hội địa phương nổi tiếng nhất ở Nhật Bản.

Kamakura có nhiều lễ hội, nối tiếng nhất là lễ hội đền Tsurugaoka Hachiman. Trong ngày hội này, người ta diễn lại cảnh các võ sĩ xưa mặc áo giáp, cưỡi ngựa và bắn cung.

[​IMG]

Một số lễ hội như Daisairei ở Izumo, lễ hội Bon ở Shikoku, lễ hội Aoi ở Kyoto dù chỉ mang tính chất địa phương nhưng là nơi thu hút sự quan tâm của rất nhiều du khách. Lễ hội Aoi ở Kyoto bao gồm cả một cuộc diễu hành của những người mặc trang phục trong một buổi thiết triều cổ xưa.

Lễ hội Aoi (Kyoto) đó là một buổi diễu hành của những thiều nữ xinh đẹp , mặc những bộ kimono của hoàng tộc , đó là 1 lễ hội cung dình như ở Huế ấy ^^, nhưng cầu kì hơn rất nhiều .

[​IMG]

* Lễ hội nông nghiệp
Từ ngày xưa, các lễ hội nông nghiệp ở Nhật thường được tổ chức ở các vùng, với mục đích là cầu khấn cho một vụ mùa bội thu, hoặc để cảm ơn thần linh đã cho một mùa màng thắng lợi và đồng thời cầu khấn một vụ bội thu trong năm tới. Vào mùa thu, lễ hội mùa gặt được tổ chức và người ta dâng lên cúng thần thành quả đầu tiên của đồng ruộng. Khi có lễ hội, cả làng tham gia và ở nhiều nơi người ta tổ chức các xe diễu hành mang hình tượng của các vị thần đi qua các phố xá. Tại cung điện của Thiên Hoàng, đích thân nhà vua đóng vai người dâng những nông sản mới thu hoạch cho thần linh.

* Lễ Hội mùa hạ (Domatsuri)
Lễ hội mùa hạ được tổ chức với mục đích ngăn ngừa bệnh tật. Loại lễ hội này hiện nay vẫn được tổ chức đều đặn, và trong lễ hội, người ta tổ chức các thuyền diễu hành trang hoàng rực rỡ đi dọc theo các con sông, tiếp sau là những đoàn thuyền hộ tống. Một trong những lễ hội mùa hạ lớn nhất ở Nhật và hấp dẫn khách du lịch hàng năm là lễ hội Nebuta được tổ chức vào tháng 8 ở Aomori.

Các lễ hội tiêu biểu

Ngày của biển - Umi no Hi

[​IMG]

Ngày của Biển - (Umi no Hi), đã được chọn làm ngày quốc lễ của Nhật kể từ năm 1996. Trong ngày này tất cả các công sở đều nghỉ làm việc, ở các công viên nước quốc gia sẽ tổ chức nhiều sự kiện đặc biệt, tất cả các hoạt động kinh tế và văn hóa liên quan đến biển đều được tập trung chú ý và nhiều cuộc trình diễn thể thao dưới nước sẽ được diễn ra.

Mục đích của ngày lễ này là nhằm nâng cao nhận thức của người dân Nhật về tầm quan trọng của biển đối với sự tồn tại và phát triển của đảo quốc này. Nhật Bản có chiều dài bờ biển khoảng hơn 29 nghìn km, diện tích thềm lục địa khoảng 304 nghìn km2, diện tích vùng đặc quyền kinh tế trên biển khoảng 3,7 triệu km2 và trong khoảng cách 100km dọc theo bờ biển tập trung đến 93,6% dân số.

Về mặt lịch sử, ngày 20 tháng bảy là ngày kỷ niệm sự kiện Nhật Hoàng Minh Trị trở về cảng Yokohama sau chuyến hải hành lên phía bắc đến Hokkaido vào năm 1876. Việc tổ chức kỷ nệm sự kiện này đã được bắt đầu từ năm 1941 với tên gọi là “Ngày Tưởng niệm Biển” (Umi-no-kinenbi). 

"Vào năm 1874, Triều đình Minh Trị đã đặt Hãng đóng tàu Robert Napier & Son của Scotland đóng một chiếc tàu tên là Meiji-Maru, loại tàu 2 cột buồm chạy bằng hơi nước. Bằng con tàu này, nhà vua đã thực hiện chuyến hải trình để thị sát vùng phía Bắc nước Nhật năm 1876, xuất phát từ Aomori đến Hakodate và trở về Yokohama an toàn vào ngày 20/7. Tàu Meiji-Maru được cải tạo vào năm 1898 và được sử dụng tiếp trong hơn 50 năm như mô hình để dạy hàng hải tại Trường Hàng hải Tokyo. Năm 1978, con tàu được công nhận là “Di sản văn hóa quan trọng” của Nhật. Ngày nay, con tàu được gìn giữ như là biểu tượng của công nghệ đóng tàu và nghề đi biển Nhật vào thời kỳ cải cách Minh Trị. Ngày 20 tháng 7 còn là ngày bắt đầu kỳ nghỉ hè của học sinh Nhật.

Từ năm 1996, ngày Tưởng niệm Biển đã được đổi tên là Ngày của Biển. Sau đó, theo Tu chính án của Luật về Quốc lễ, Ngày của Biển được quy định lại là ngày thứ Hai của tuần thứ ba tháng bảy, áp dụng kể từ năm 2003. Năm nay, 2004, Ngày của Biển là ngày 19/7.

Lễ hội bắn pháo hoa ven sông Sumida :D:D:D

[​IMG]

Cứ vào dịp hè, khắp nơi trên đất nước hoa anh đào đều tổ chức các lễ hội bắn pháo hoa. Lễ hội bắn pháo hoa ở ven sông Sumida, dòng sông chảy về phía đông qua khu vực dân cư đông đúc của Tokyo thường được tổ chức vào cuối tháng 7 hàng năm, và mỗi lần có khoảng 2 vạn quả pháo hoa được bắn trong lễ hội này, thu hút hơn 900 ngàn người đến xem.

Các cuộc thi bắn pháo hoa của các công ty sản xuất pháo, cả gồm những loại pháo hoa mua từ nước ngoài, hoặc những loại pháo dùng trong các cuộc thi ảnh, đều được trình diễn trong lễ hội này. 

Trong khi ngắm những bông pháo nở tung rực rỡ trên bầu trời đêm mùa hạ lấp lánh ánh sao, mọi người tổ chức ăn uống cùng gia đình và bạn bè. Nhiều người đến sớm để có được vị trí thuận lợi ngắm pháo hoa. Người thì trải các tấm chiếu lên chỗ của mình dọc theo bờ sông, người thì lái thuyền dọc theo con sông. Những ngày như vậy đều chật ních người đến ngắm pháo hoa. Nhiều người còn đặt chỗ sẵn trong nhà hàng hoặc khách sạn, nơi có thể ngắm được khung cảnh một cách dễ dàng. 

Lễ hội bắn pháo hoa dọc sông Sumida tổ chức lần đầu tiên vào năm 1733. Vào năm trước đó, toàn nước Nhật đã bị chịu một nạn đói khủng khiếp làm đến 900,000 người chết đói. Vào thời gian đó ở Edo (Tokyo ngày nay), có rất nhiều người bị chết vì bệnh tả và xác chết bị cấm đặt ở trên phố. Chính phủ đã quyết đinh tổ chức lễ hội bắn pháo hoa với mong ước những linh hồn xấu số được khuây khỏa, cũng như để xua đi bệnh dịch hạch cũng đang xuất hiện. 

Trong lễ hội, trước đây có hai công ty pháo hoa là Kagiya và Tamaya hỗ trợ cho lễ hội, thường tổ chức các cuộc thi bắn pháo hoa rất quyết liệt. Vào khoảng năm 1879, khi Nhật bản mở rộng thương mại buôn bán với nhiều nước, và nhập nhiều loại hóa chất mới từ nước ngoài vào. Từ đó pháo hoa đã có nhiều màu như đỏ, xanh da trời, xanh lá cây và càng trở nên cuốn hút người xem hơn. 

Lịch sử của lễ hội bắn pháo hoa ven sông Sumida được trình bày rất chi tiết tại Viện bảo tàng pháo hoa Ryogoku. 

SHABU-LẨU NGON MANG ĐẬM PHONG CÁCH NHẬT BẢN

Shabu là món lẩu ngon nổi tiếng của người Nhật. Nếu như đã một lần tới xứ sở hoa anh đào này thì đừng quên thưởng thức lẩu Shabu nhé!



Lẩu Shabu

Bạn có biết cái tên Shabu bắt nguồn từ đâu không? Câu trả lời rất đơn giản: Shabu được đặt dựa theo âm thanh khi nhúng thịt vào nước dùng. Lẩu Shabu ngon và nổi tiếng bởi tất cả những nguyên liệu nhúng lẩu và nước lẩu. Thịt bò dùng để nhúng phải là loại thịt bò tươi, và được xắt thành từng miếng mỏng.
Lẩu Shabu được uống kèm với rượu sake, bia lạnh, trà nóng hoặc là rượu vang đỏ. Còn đồ tráng miệng là trái cây, nước ép trái cây hoặc là nước đá.
hi dùng lẩu, người ăn thường lấy thịt bò nhúng qua nước lẩu cho vào chén ăn kèm với nước chấm. Nước lẩu Shabu Shabu đơn giản chứ không cầu kỳ và đa nguyên liệu như lẩu Tứ Xuyên.
Trước khi thưởng thức món lẩu Shabu, cần chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu:
- Thịt bò: 350g
- Lá phổ tai: 100g
- 200g cải thảo, 200g cải cúc, 150g cà rốt, 150g củ cải trắng, 150g hành boa-rô, 150g nấm đông cô, 50g hành lá, 150g nấm kim châm, 2 miếng đậu hũ Nhật, 20g nước tương Kikkoman, 2 trái chanh, 5 tép tỏi, 50ml dầu mè Nhật Atari Goma


Cải thảo là loại rau nhúng không thể thiếu trong lẩu Shabu

Thực hiện:
- Thịt bò rửa sạch, xắt lát mỏng lớn
- Cho phổ tai vào khoảng 1 lít nước, đun sôi làm nước dùng
- Cải thảo, cải cúc, hành lá rửa sạch, xắt khúc ngắn.
- Cà rốt gọt vỏ, tỉa bông.
- Củ cải trắng gọt vỏ, nạo nhuyễn.
- Hành boa-rô cắt lát xéo.
- Nấm cắt bỏ chân, rửa sạch.
- Đậu hũ cắt miếng vừa ăn.
- Chanh vắt nước cốt.
- Hành lá xắt nhỏ.


Hành, tỏi băm nhỏ

- Tỏi băm nhỏ
- Nước chấm: Pha nước cốt chanh và tương Kikkiman hoặc dầu mè atari goma, dầu ăn và tỏi xay
- Nước dùng sôi, cho từng nguyên liệu vào, ăn kèm nước chấm.
Như vậy là chúng ta đã có được nồi lẩu Shabu ngon lành, với đầy đủ các đồ nhúng tươi ngon.
Hoặc bạn có thể thưởng thức món lẩu Shabu ngon đậm chất tại Nhà hàng Hotto Hot Pot-229 Tây Sơn, Đống Đa, Hà Nội. Không chỉ ngon mà giá rất phù hợp, có cả lẩu dành cho 1 người và nhiều người.
Chúc các bạn ngon miệng!

Sashimi cá hồi – Sashimi sò điệp

Đây là hai món bạn nên gọi ăn chung. Cá hồi và sò điệp được làm sạch, cắt thành lát đặt trên một đĩa rong biển. Tùy vào khẩu vị yêu thích mà bạn có thể chọn giữa cá hồi hoặc cá ngừ. Tuy nhiên, cá hồi có vị ngọt tự nhiên, dễ ăn hơn so với cá ngừ có phần hăng. Trước khi ăn sashimi, bạn nên đổ nước tương ra chén, cho 1-2 viên wasabi vào tán đều. Dùng đũa gắp miếng cá hồi hoặc sò điệp, chấm ngập vào chén tương wasabi và cho vào miệng, vị hăng hòa lẫn với vị tươi ngọt của cá hồi sẽ khiến bạn gật gù hài lòng. Lưu ý, nếu lần đầu tiên làm quen với wasabi, bạn chỉ nên bỏ nửa viên để tránh bị hăng lên mũi. Một phần sashimi cá hồi có giá khoảng 118.000 đồng.
sashimi-ca-hoi-sushi-binh-duon-5061-1699
Những lát cá hồi tươi này luôn gây nghiện với những thực khách mê món ăn Nhật Bản.

Tempura, Món Chiên Độc Đáo Nhật Bản


 
Tempura là món ăn thứ hai của Nhật Bản được cả thế giới biết đến sau Sushi
 Tuy cả thế giới biết đến Tempura chỉ sau Sushi, nhưng đây lại là món ăn có xuất xứ từ châu Âu. Tempura xuất phát từ từ “Tempora” trong tiếng Latin, có nghĩa là “thời gian”.
  Tempura được du nhập vào Nhật Bản từ giữa thế kỉ thứ 16, được giới thiệu bởi những người truyền giáo Bồ Đào Nha. Theo thiên chúa giáo, Tempura dùng để chỉ thời kì ăn chay của họ hay còn gọi là “Ember Days”. 
  Tempura, từ cuối thế kỉ thứ 19, đã trở thành món ăn phổ biến tại Tokyo và được bán tại các quầy hàng ở ven đường. Tại Nhật Bản, các nhà hàng chuyên chế biến Tempura được gọi là Tempura-ya.

  
 Tempura là món ăn đứng đầu trong các món chiên của Nhật
 Tempura xuất hiện nhiều trong các bữa ăn thông thường đến tiệc sang trọng. Nguyên liệu để chế biến những chiếc bánh chiên Tempura Nhật Bản rất đa dạng bao gồm cả động và thực vật như thủy hải sản tươi sống: tôm, mực, sò điệp, cua, các loại cá và rau xanh: cà tím, ớt chuông, khoai tây, hạt tiêu xanh, măng, khoai lang, nấm shiitake… Các loại rau và hải sản được rửa sạch, để khô, thái nhỏ và nhúng trong hỗn hợp bột bao bên ngoài với một lớp mỏng… Thoạt nhìn, Tempura như chiếc bánh tẩm bột chiên giòn của người Việt song cách chế biến và hương vị món ăn hoàn toàn khác biệt. Tempura hấp dẫn bởi sắc vàng tươi, nóng hổi, mềm béo. Món ăn càng trở nên thú vị bởi lẽ trước khi thưởng thức bạn sẽ không bao giờ biết được bí mật ẩn bên trong lớp vỏ giòn tan kia là gì?
  Để làm ra những chiếc Tempura thơm ngon thì mọi nguyên liệu đều phải tươi ngon nhất. Bột dùng để chế biến Tempura là hỗn hợp koromo gồm trứng gà, bột mì, nước đá và một số gia vị khác. Bột Tempura chỉ cần pha trộn trong một vài giây và với lượng bột nhỏ đủ dùng cho một mẻ rán. Bột sẽ luôn được giữ lạnh bằng cách đặt bát bột trong một bát nước đá. Cũng có một số loại Tempura còn được phủ ra bên ngoài một lớp hạt vừng hoặc vụn bánh mì… trước khi đem chiên, tạo nên hương vị đặc biệt cho Tempura.
 
  Dầu sử dụng để chiên Tempura thông thường  là dầu thực vật hoặc dầu Canola. Tuy nhiên, Tempura truyền thống thường sử dụng dầu vừng hoặc một số loại dầu chiết xuất từ các loại hạt. Nhiệt độ dầu thường được giữ ở 160-180 độ C, tùy thuộc vào thành phần nguyên liệu. Sản phẩm sẽ là Tempura thật bắt mắt vàng nâu, nóng, và ngon. Nhờ vậy Tempura sau khi chiên sẽ có được sắc vàng tươi sáng và lớp bột chiên giòn tan. Cũng bởi sự đa dạng về nguyên liệu nên Tempura mang rất nhiều hương vị độc đáo khác nhau, có thể kết hợp thưởng thức với nhiều món ăn khác nhau như Soba, mỳ Udon, cơm…

Khi ăn Tempura, người Nhật còn hay phối hợp với nhiều món ăn khác


với Soba được gọi là Tempura Soba hoặc Tensoba, với Udon gọi là Tempura Udon,
với Cơm Tendon… đều rất ngon !
 
   Nước chấm cũng là yếu tố quan trọng góp phần tạo nên hương vị cho món Tempura. Thông thường khi thưởng thức Tempura người Nhật pha nước tương pha thật loãng, có vị thanh mát giúp “đánh tan” cảm giác béo ngấy của món ăn. Bạn có thể cho một ít củ cải trắng và gừng băm nhỏ vào chén nước chấm khuấy đều. Cho miếng tempura ngập vào nước chấm, thưởng thức ngay để miếng ăn có độ giòn nhẹ thanh tao vốn có. Tempura phải được chiên và dùng ngay vì chỉ sau vài chục phút, vị ngon của nó sẽ giảm đi đáng kể. 
  Gắn liền với tên gọi mang nét đẹp đáng tự hào của nền văn hóa xứ sở Mặt Trời Mọc, nhà hàng Kimono - tọa lạc tại số 52-54 Lý Thường Kiệt - Hà Nội là địa chỉ quen thuộc của những thực khách đam mê nghệ thuật ẩm thực Nhật Bản. Ngay từ những ngày đầu thành lập, không phô trương ồn ào, chúng tôi khẳng định mình bằng phong cách tinh tế, hương vị độc đáo & sự chu đáo, tận tâm trong phục vụ để có thể làm hài lòng những khách hàng khó tính nhất.

Sushi là món ăn truyền thống và cũng là một biểu tượng của văn hóa ẩm thực Nhật Bản.

Nếu nói đến nét đẹp trong văn hóa ẩm thực của Nhật Bản, hẳn chúng ta không thể bỏ qua sushi, một món ăn kết hợp cơm với hải sản sống hoặc chín, sử dụng phương pháp bảo quản cá bắt nguồn từ Trung Hoa cổ. Hãy cùng Genk tìm hiểu những thông tin về món ăn đa dạng về hương vị cũng như những cách khéo léo bày trí khiến người thưởng thức không thể cưỡng lại.
kham-pha-net-van-hoa-am-thuc-nhat-ban-sushi
 
Lịch sử và nguồn gốc
 
Dựa vào lợi thế vị trí địa lí nằm xoải theo bên sườn phía đông lục địa Châu Á, có đường bờ biển kéo dài khoảng 29750km bao gồm nhiểu vũng, vịnh, biển có nhiều ngư trường lớn vì vậy nguồn hải sản tự nhiên ở đất nước Nhật Bản vô cùng lớn. Mặc dù hàng ngày ngư dân có thể đánh bắt được rất nhiều cá nhưng ngày xưa công nghệ chưa phát triển, để bảo quản cá con người chỉ có cách phơi khô hoặc chế biến thành món ăn có khả năng tích trữ trong thời gian dài. Người Nhật đã khéo léo dựa trên cách thức của người Trung Hoa cổ, cá sẽ được ướp muối bọc trong cơm để lên men tự nhiên trong khoảng từ 2 tháng đến 1 năm. Đến thời điểm ướp xong, người ta sẽ chỉ dùng cá muối còn phần cơm sẽ được loại bỏ. Sau này, ngoài việc phát triển các phương pháp lên men và tẩm ướp khác nhau, người Nhật đã trực tiếp sử dụng cá sống, thưởng thức với các gia vị chế biến bổ trợ để tạo nên độ tươi, hương vị nguyên chất, và cảm nhận hết cái ngon của các loại hải sản giàu protein này. Sushi chính là một kiệt tác thành công trong cách chế biến ẩm thực của người Nhật Bản.
kham-pha-net-van-hoa-am-thuc-nhat-ban-sushi
 
Sự phát triển của sushi
 
Tuy nhiên, sự phát triển của sushi không phải nghiễm nhiên trở nên phổ biến và thành biểu tượng văn hóa ẩm thực của đất nước hoa anh đào như bây giờ. Vào khoảng đầu thế kỉ thứ 19, hệ thống các cửa hàng dịch vụ đồ ăn nhanh chiếm lĩnh trong thị trường ngàng công nghiệp ăn uống. Người Nhật luôn sống trong vòng xoáy hối hả của cuộc sống, dường như họ không có bất kì khoảng thời gian dư giả dành cho việc ăn uống, Vì vậy, điều kiện thiết yếu của các món ăn thời đại này phải đặt tiêu chí nhanh, chất lượng lên hàng đầu. Bếp trưởngYohei Hanaya một bậc kì tài sáng tạo đã chế biến sushi với những nắm cơm nhỏ kết hợp với nguyên liệu hải sản sống, hoặc cuốn cơm trộn với rau củ quá, hải sản trong là rong biển, cắt từng khoang đựng vào các hộp nhỏ rất tiện lợi.Từ đó, rất nhiều người đã chọn sushi cho bữa ăn của mình bởi nó đầy đủ chất dinh dưỡng, không béo phì như các đồ ăn nhanh của phương tây.

SHINJUKU

Đền Meiji được hoàn thành và dành riêng cho Thiên Hoàng Minh Trị và Hoàng hậu Shoken vào năm 1920, tám năm sau sự ra đi của hoàng đế và sáu năm sau sự ra đi của hoàng hậu. Đền thờ đã bị phá hủy trong chiến tranh thế giới thứ hai nhưng đã được xây dựng lại ngay sau đó.

Khám phá ngôi đền Meiji nổi tiếng ở Shinjuku, Tokyo

Hoàng đế Minh Trị là hoàng đế đầu tiên của Nhật Bản hiện đại. Ông sinh năm 1852 và lên ngôi vào năm 1867 ở đỉnh cao của Minh Trị Duy Tân khi thời đại phong kiến của Nhật Bản đã kết thúc và hoàng đế đã được phục hồi quyền lực. Trong thời kỳ Minh Trị, Nhật Bản hiện đại hóa và Tây hóa để gia nhập cùng các cường quốc lớn của thế giới vào thời điểm hoàng đế Minh Trị qua đời vào năm 1912.

Khu liên hợp chính của kiến trúc ngôi đền nằm khoảng 10 phút đi bộ từ cả 2 lối vào phía nam gần ga Harajuku và lối vào phía bắc gần ga Yoyogi. Bước vào khu vực đền thờ, nơi được đánh dấu bởi một cổng Torii lớn, sau đó các cảnh quan và âm thanh của thành phố bận rộn dần được thay thế bằng một khu rừng yên tĩnh.

Có khoảng 100.000 cây trong khu rừng của đền Meiji được trồng trong quá trình xây dựng đền thờ và được hiến tặng từ các vùng miền trên cả nước. Nằm ở giữa rừng, đền Minh Trị có một không khí yên tĩnh riêng biệt so với thành phố xung quanh.

Du khách đến đền thờ có thể tham gia vào các hoạt động Shinto tiêu biểu , chẳng hạn như các dịch vụ tại hội trường chính, mua bùa bình an và bùa hộ mệnh hoặc viết ra mong muốn của mình lên ema.

Đền Meiji  là một trong những ngôi đền nổi tiếng nhất Nhật Bản. Trong những ngày đầu tiên của năm mới, đền thờ thường xuyên chào đón hơn 3.000.000 du khách đến để cầu nguyện năm mới (hatsumode), nhiều hơn bất kỳ ngôi đền hoặc ngôi chùa nào khác trong cả nước.Trong các tháng còn lại của năm, các đám cưới Shinto truyền thống thường được tổ chức ở đây.

Ở nơi tận cùng về phía bắc của khu vực đền thờ du khách sẽ đi qua Ngôi nhà kho tàng của đền Minh Trị, được xây dựng một năm sau khi ngôi đền được mở cửa. Nhà kho tàng trưng bày nhiều đồ dùng cá nhân thú vị của Thiên Hoàng và Hoàng hậu, bao gồm cả xe ngựa mà Thiên Hoàng đã cưỡi trong tuyên bố chính thức của Hiến pháp Minh Trị năm1889. Ngoài ra còn có một Bảo tàng phụ lục xây dựng ở phía đông của khu đền thờ chính trưng bày những triển lãm tạm thời.

Khám phá ngôi đền Meiji nổi tiếng ở Shinjuku, Tokyo

Một khu vực rộng lớn ở phần phía nam của khu vực đền với khu vườn bên trong, nơi đây đòi hỏi một khoản phí vào cửa để vào. Khu vườn trở nên đặc biệt phổ biến trong thời gian giữa tháng sáu khi hoa Iris nở.

Một cái giếng nhỏ cũng nằm trong khu vườn, giếng của Kiyomasa, được đặt tên sau khi một chỉ huy quân sự người đào nó khoảng 400 năm trước đây. Giếng cũng từng được viếng thăm bởi Thiên Hoàng và Hoàng hậu khi họ vẫn còn sống và trở thành “nơi chốn quyền lực” thiêng liêng và nổi tiếng.

KYUSHU

Các điểm du lịch nổi tiếng của Kyushu - Nhật Bản

Kyushu là vùng phía Tây Nam của hòn đảo chính Honshu Nhật Bản. Nơi đây có khí hậu ôn hòa, đồng lúa mạ non xanh, suối nước nóng và núi lửa huyền bí.
Kyushu gồm các thành phố: Fukuoka, Saga, Nagasaki, Kumamoto, Oita, Miyazaki, Kagoshima. Trong đó, thành phố Fukuoka có chuyến bay thẳng từ Việt Nam, cách Tokyo 6 giờ và cách Shin - Osaka 3 giờ đi tàu siêu tốc Shinkasen (cổng đường sắt để đến Kyushu).
IMG_1976.JPG
Ngược lại, Nagasaki là nơi khởi điểm để thăm Unzen. Nagasaki là cảng Nhật Bản được Mạc Phủ Tokugawa mở cửa giao thương quốc tế trong thời gian Nhật Bản bế quan tỏa cảng từ năm 1639 đến 1859. Điểm tham quan chính trong thành phố gồm chùa Sofukuji (còn gọi là chùa Trung Quốc), Quốc Bảo Giáo hội Công giáo Oura và dinh Glover có lịch sử hàng trăm năm. Ngoài ra, du khách cũng được tới thăm công viên Hòa Bình Nagasaki, được thành lập nhằm tưởng nhớ vụ thả bom nguyên tử vào ngày 9/8/1945 xuống Hiroshima.
Bạn có thể đi xe khoảng 2 giờ từ Nagasaki đến Unzen để vừa tham quan vùng cao nguyên vừa tận hưởng cảm giác thoải mái tại các khu nghỉ mát trên bờ biển suối nước nóng. Unzen là một ngọn núi lửa đang hoạt động bao gồm ba đỉnh núi, trong đó Fugendake là đỉnh cao nhất (khoảng 1.360m). Shimabara lại là nơi Lâu đài Shimabara được dựng lên. Tháp canh của lâu đài được trùng tu thành một bảo tàng trưng bày ghi dấu cuộc nỗi dậy đấu tranh chống lại cuộc đàn áp của Mạc phủ Shogunate năm 1638.
IMG_2300.JPG
Điểm đến tiếp theo là Kumamoto, thành phố cách trạm Hakata 1 giờ 30 phút đi tàu cao tốc. Các điểm tham quan chính bao gồm Lâu đài Kimamoto và Công viên Suizeji. Kimamoto cũng là cổng vào Vườn Quốc gia Aso Kuju. Vườn Aso Kuju gồm nhiều núi lửa như Aso - miệng núi lửa lớn nhất thế giới, độ cao 1268m so mực nước biển đang hoạt động; núi lửa Nakadake đã phun trào cách đây hàng trăm nghìn năm, lần đầu phun trào cách đây 300.000 năm, lần cuối cách đây 90.000 năm. Nơi này được mệnh danh là "vùng của lửa". Du khách có thể lên đỉnh Naka bằng 2 cách, cáp treo hoặc xe ôtô để nhìn thấy đáy điểm phun trào.
Một điểm hấp dẫn không thể bỏ qua là  Beppu, cách Oita 15 phút đi xe điện, nằm trên bờ biển phía Đông của Kyushu. Beppu là một thành phố suối nước khoáng nóng nổi tiếng với hơn 3.000 resort có nguồn nước nóng, ao bùn hoạt động rất mạnh. Đây là một trong những khu nghỉ mát có suối nước nóng lớn nhất Nhật Bản.
Nếu muốn thăm công viên Nichinan Kaigan, bạn có thể tới Miyazaki, thành phố cách Oita 3 giờ 20 phút đi tàu cao tốc. Công viên chuẩn quốc gia Nichinan Kaigan trải dài khoảng 100km dọc theo vùng duyên hải phía Nam của Miyazaki. Trên đường quốc lộ, du khách được dừng chân chụp ảnh tại Hodikidi pass. Takachio Gorge cũng là một địa điểm hấp dẫn. Đây là một khe núi rất đẹp (thác nước Manai) được hình thành bởi núi lửa phun trào cách đây 90.000 năm. Điểm thu hút chính của nó là đảo Aoshima, một cù lao nhỏ được bao phủ bởi những hàng trầu cau hoặc Biro dày đặc.
IMG_2325.JPG
Kagoshima cách Miyazaki 2 giờ 20 phút đi tàu cao tốc. Thành phố có rất nhiều danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, suối nước nóng và bị chi phối bởi Sakurajima, một núi lửa đang hoạt động. Du khách mất 1 giờ đi xe điện từ trạm Nishi- Kagoshima để đến Ibusuki, một trong những khu nghỉ dưỡng suối nước nóng nổi tiếng Nhật Bản. Nằm ở cực Nam của bán đảo Satsuma, khu nghỉ dưỡng này nổi tiếng với bãi biển cát trắng mịn và dịch vụ tắm cát nóng để có thể thư giãn và xua tan những mệt mỏi. Không chỉ là nơi du lịch đáng đến mà Kyushu còn là nơi mua sắm tuyệt vời cho du khách.
Những tín đồ mua sắm sẽ thích Tosu Outlets, chỉ cách Hita 30 phút. Bạn có thể lựa chọn hàng trăm nghìn món đồ hiệu đa dạng mẫu mã, đặc biệt là giá rất rẻ so với các Outlets trong khu vực châu Á.
Vietrantour là một trong những công ty du lịch lớn có uy tín sẽ giúp du khách khám phá vùng Kyushu, hành trình tham khảo 6 ngày, giá 39,9 triệu đồng.